Nguồn gốc :
Ta dùng con rết lớn ,nhiều chân, thân dẹt,dài 7 – 13cm,thường gồm chừng 20 đốt, mỗi đốet có một đôi chân. Đốt cuối cùng hai chân biến thành như hai đuôi. Đầu rết có hai râu dài, răng nhọn, sắc, cắn đau và có chất độc, khi bắt cần chú ý. Vào các tháng 4-5 đẻ trứng, mỗi con đẻ chừng 20 – 30 trứng, sau ít lâu nở thành rết con, lúc đầu có màu trắng, sau lột xác thành rết lớn màu nâu đỏ.
Con rết sống hoang ở dưới những khúc gỗ mục, các hòn đá, mái nhà mục nát. Hiện nay nhân dân ta chỉ bắt những con sống hoang. Tại Trung Quốc, do nhu cầu lớn, đã đặt vấn đề nuôi rết dùng trong nước và xuất khẩu. Triều Tiên cũng nuôi dùng và xuất khẩu rết. Chọn những con to béo là tốt.
_w_480.jpg)
Công dụng và liều dùng :
Tính vị theo đông y : Vị cay, tính ôn,có độc, vào kinh can. Tác dụng khử phong, trấn kinh giản, giải độc của rắn. Dùng chữa hàn nhiệt tích tụ trong bụng, truỵ thai, trừ ác huyết, trị sang nhọt
Theo các tài liệu cổ con rết trị các bệnh sau đây :
- Chữa sang trĩ đau nhức : Ngô công bỏ đầu, chân, sấy khô, tán nhỏ, hoà ít long não, thêm ít nước hay rượu bôi lên
- Kinh nghiệm của đơn vị quân y : Rượu rết ( cả con cho vào rượu 90 độ ) bôi lên mụn nhọt
- Bắt 6 con rết cho vào lọ, đổ dầu vừng vào ngâm vài tháng. Lấy bông thấm thuốc này bôi lên các mụn nhọt, chỗ bị sâu, trùng độc cắn sẽ hết đau
- Ngô công sấy khô, bỏ đầu chân, tán nhỏ, trộn với lượng tương đương bột cam thảo và thêm nước hồ làm thành viên
Ngày uống 0,5g viên chia làm 3 lần, dùng chữa tê liệt thần kinh mặt, đau nhức, tê thấp, trẻ con cấm khẩu không bú được |